Khi rời nhà Chris tôi thấy nản lòng. Có một người La Mã nào đó từng nói với tôi, “Post coitum omne animal triste”, sau khi làm tình mọi loài vật đều cảm thấy buồn chán, nhưng tôi cho rằng trường hợp tôi còn hơn thế nữa. Chuyện quan hệ tình dục tất nhiên là sướng và chính xác là tôi sẽ không từ chối, nếu có cơ hội tôi vẫn cứ quay lại để vui vẻ, nhưng những cuộc ái ân nồng thắm mà tôi có được với Paul mới là tất cả. Một thứ tình dục nhân lên gấp bội – sau đó nằm bên nhau, mơn trớn, thủ thỉ nói chuyện… và những thú vui sau quan hệ xác thịt càng khiến con người tôi phấn chấn. Không phải là cái thứ mà một số người từng nói một cách thô tục rằng “con cặc kết chặt trái tim” – xác thịt sẽ dẫn dắt đến tình yêu. Riêng tôi thì không như vậy và không muốn như vậy. Tôi là kẻ có tư tưởng tự do, hành động tự do. Quá đúng đi chứ. Nhưng sao lúc nào tôi vẫn cứ nhớ đến Paul.
Dù sao đi nữa, tôi vẫn tin chắc rằng đó không phải là lý do duy nhất khiến tôi nản lòng. Có lẽ đó là dư vị những ly rượu gin ban sáng. Lẽ ra tôi nên mừng mới phải. Có cả thú vui xác thịt lại dẫn dắt tới một vụ làm ăn ngon lành ! Cho tới lúc này tôi đã phải nợ tiền nhà gần cả tuần rồi, còn xui xẻo hơn nữa là đang nợ cả tiền thuê văn phòng ở đường Jermyn. Tôi tự hỏi – như tôi vẫn thường làm thế – không biết tôi có nên dọn đến một chỗ xa hơn khu vực phố thị tấp nập này hay không
Một đám mây che ánh mặt trời. Tôi ngước nhìn. Phải, bầu trời đầy mây và đàng xa lóe lên những ánh chớp đe dọa.
Tôi hòa vào dòng người đang đứng đợi ở trạm xe điện.
Tốt nhất là tôi nên có một đêm nghỉ ngơi ngon giấc nhưng tôi hiểu rằng mình phải đến khách sạn Grenadier vào 8 giờ tối.
Lúc mọi việc chuẩn bị đâu vào đó, thì ngoài trời đã tối mịt, tối như lúc 10 giờ đêm và mưa rả rích rơi trên vỉa hè. Tôi gọi xe taxi chạy đến khu công viên Hyde Park.
Grenadier là một khách sạn nổi tiếng, ngay cả có thời kỳ nó được dùng như một khu xà lim giam người. Tôi – mặc dù sẽ nhận được một khoản thù lao hậu hỉ từ Barney – nhưng vẫn phải xì ra một món tiền chỉ để lọt vào bên trong khách sạn. Ngay cả giá ba ly rượu cũng là giá ở trên trời. Vậy mà cái gã Benjamin này lại đến đây, ra vào thường xuyên như cơm bữa. Trời đất ơi, chắc anh chàng này phải là triệu phú mới đúng. Nốc cạn ly rượu rẻ mạt nhất ở đây, mùi vị chẳng ra sao cả, tôi tiếp tục đi lòng vòng để tìm chàng trai mà ban sáng nhìn thấy ở công viên. Tôi nhớ chàng trai có nước da trắng xanh, mái tóc vàng cắt ngắn, mũi cao, đôi mắt liếc qua liếc lại không phải là đưa tình, mà là cái nhìn thiếu thành thật, nếu không nói là gian xảo. Nhưng trong cách nhìn nhận của tôi, tất cả mọi thứ chàng trai có vẫn hết sức quyến rũ – mà đôi mắt chàng trai là một trong số đó.
Tôi vẫn đi lòng vòng. Những ánh đèn chớp tắt đủ màu – thứ đèn ở vũ trường – không làm cho tôi bảnh trai thêm chút nào, nó còn khiến tôi không khác gì một thằng cù bơ cù bất, lạc lỏng. Nó làm cho tôi có cảm giác về những ngày làm việc căng thẳng với cặp kính sát tròng vì những việc phải nhìn quá gần.
Thình lình tôi trông thấy chàng trai đang đứng một mình ở một góc đang nhìn quanh, mắt cứ hau háu thèm khát, chẳng khác gì ánh mắt của tôi lúc ở các hộp đêm giới đồng tính. Nhìn gần, chàng trai có thân người mảnh dẻ, có phần hốc hác, không giống như cái nhìn ban đầu.
“Chào Ben”, tôi hồ hởi chào ra vẻ quen biết lâu. Chàng trai giật mình liếc nhìn tôi, tôi đã nhận ra Ben ngay từ cái nhìn đầu tiên. “Ben Cameron, phải không ?”, tôi hỏi nhưng thực chất đã khẳng định.
“Ê, nói bậy gì vậy”, chàng trai đáp, “anh nhầm người rồi đó”, chàng trai này hoặc là bị tâm thần hoặc là đang nói dối.
“Thế thì kỳ thật”, tôi nói, “Sao mà giống hệt anh ta thế. Chúng tôi gặp nhau tại nhà Josh”, lời nói dối tuôn ra thật dễ dàng.
Chàng trai, người cho rằng mình không phải là Benjamin, nhìn tôi. Lần này tôi phát hiện ra vẻ hoảng hốt trong cái nhìn ấy – nhưng tôi sẽ không đầu hàng dễ dàng như thế. “Uống thứ gì nhé ?”, tôi hỏi.
Hình như chàng trai còn đang nghĩ ngợi gì trong đầu. “Ơ… OK”, chàng trai nói, “Cảm ơn. Một chút bia cũng được”, tôi để ý nghe ra cách phát âm người Úc.
Tôi đi ra quầy, sau đó trở lại với một cốc kia lớn… nhưng chàng trai đã mất tăm. Trời ơi, cô bé lọ lem đâu thể nào bỏ rơi hoàng tử trước khi chuông đồng hồ điểm 12 tiếng. Tôi thấy lối ra cửa chộn rộn nên đi theo lối ấy, trên đường đi tiện thể trao ly bia cho một quý bà nào đó khi thấy người này nhìn cốc bia thèm thuồng.
Tôi băng mình trong cơn mưa rào. Cơn mưa từ bầu trời tím ngắt xối xả đổ xuống. Một ánh chớp lóe lên soi sáng ngyên cả con đường vắng ngắt và tôi nhìn thấy bóng dáng mảnh khảnh của Ben đang vội rảo bước. Trong khi ai nấy lo tìm chỗ trú mưa, thì tôi lại dầm mình trong mưa ướt sũng, và chàng trai cũng không khác gì tôi.
Bây giờ, truy tìm dấu vết là nghề của tôi. Tôi hẳn phải nhận được huy chương về việc theo dõi, nếu có loại huy chương đặc biệt này. Tôi thường lợi dụng bóng dáng của khách bộ hành qua lại, hoặc những địa hình, địa vật ngẫu nhiên làm chỗ che giấu hành tung của mình. Nhưng tối nay tôi không cần làm như vậy. Tôi không sợ ai nhìn thấy hoặc phát hiện ra tôi bám đuôi. Bất kỳ ai cũng có thể nghĩ rằng tôi là một thằng đồng tính đang theo đuổi một gã trai “chảnh”, làm nũng trong cơn mưa bão. Bất kể Ben có biết tôi đang bám theo hay không, tôi cũng không hề quan tâm tới chuyện ấy. Chiếc áo khoác ngoài của chàng trai phần phật trong gió khi tiến về khách sạn Grenadier. Có lẽ chàng trai sẽ không lui tới nơi này nữa nếu việc che giấu thân phận đối với anh chàng là điều quan trọng, mọi việc tôi làm lúc này là không để mất dấu chàng trai.
Tôi thấy nhà trạm ở ngay cổng vào Green Park đằng trước và tự hỏi không hiểu anh chàng có lẫn vào đấy không, nhưng chàng trai đã đi qua và rẽ trái xuống còn đường bên cạnh. Tôi bước nhanh và “phanh” gấp tại khúc quanh. Lãnh địa của người nước ngoài ở đây, những ngôi nhà cổ với những con đường hẹp. Đây là Luân Đôn “cổ”, ít có sự thay đổi trong suốt một thế kỷ qua, mà có lẽ là ba thế kỷ cũng nên, ngoại trừ nhà cửa được sơn phết màu mè và giá cả đắt không thể tưởng tượng nổi. Tôi không rõ mình đang ở đâu, phố Curzont, phố Clarges, hoặc ở một nơi nào tương tự cũng nên. Thời tiết quái ác vẫn cố tình trêu cợt con người, vẫn không ngớt hạt. Cho dù tôi có nhảy xuống sông Thames cũng không thể ướt hơn thế.
Nhưng Ben vẫn ở trước tầm mắt – ít ra là tôi vẫn thấy rõ mỗi khi ánh chớp lóe lên. Đi được một lúc, Ben rẽ vào một ngôi nhà, khi tôi đến nơi thì anh chàng đã biến mất, cánh cửa đóng im ỉm. Nhìn từ bên ngoài, đó là một ngôi nhà khá dễ thương kiểu cổ chắc là có niên đại từ thời vua George (ND : TK18-19) có ba tầng, nhưng dường như đó là một gia đình, không phân chia thành nhiều căn hộ, và hơn thế nữa, chỉ có một con số duy nhất – số 18, địa chỉ ngôi nhà. Nhưng tôi lại không biết tên đường tên phố, tôi lo thầm chắc phải đợi đến sáng mới có thể đi bộ về đến nhà.
Cơn mưa vẫn không có dấu hiệu gì chấm dứt và tôi hiểu rằng mình không có cơ may tìm được một chiếc taxi đưa đến trạm xe điện ngầm để về nhà. Trông tôi lúc này chẳng khác nào một hành khách duy nhất còn sống sót trên con tàu Titanic. Mẹ tôi từng bảo rằng, “Nếu không sớm trút bỏ quần áo ướt, Matthew, con sẽ chết vì cảm lạnh”.
Tôi luôn miệng cãi lại rằng cảm lạnh do virus gây ra chứ không phải do bị ướt nhưng sự thật là sáng hôm sau cổ tôi đau rát và sổ mũi dường như để bác bỏ lập luận của tôi.
Barney gọi điện cho tôi trước khi tôi rời văn phòng. “Có, mình có tìm gặp người đó tối qua”, tôi trả lời bằng giọng ngạt mũi, một giọng không giống giọng của tôi lúc bình thường. “À không, anh ta phủ nhận, bảo rằng không phải là Benjamin Cameron – nhưng mình nghĩ người này đã nói dối. Ừm, mình cũng tìm được chỗ người đó đang sống. Ừ, mình sẽ đi tìm ngay thôi. Ừm, mình bị cảm lạnh, cảm ơn cậu”.
Sau cơn bão tối qua, bầu trời lại trong vắt, không khí trong lành (hoặc tôi tưởng tượng như thế vì lổ mũi tôi nghẹt cứng nào có ngữi được gì) cứ như là gột sạch những bụi bẩn. Một cảnh quan thoáng mát không khác gì ở đồng quê. Trên vỉa hè rải rác những vũng nước đọng lại, tĩnh lặng. Tôi gọi xe lên đường High Street mua thuốc uống. Sau đó, đón tàu điện ngầm trở lại công viên Green Park.
Tìm đường cũng không khó. Lúc ấy tôi mới biết đó là đường Shepherd và tôi mang máng vì chợt nhớ điều gì trong đầu mình nhưng không rõ ràng, nó khiến tôi nghi ngại, lúc này tôi chỉ nhớ mỗi một việc : đường Shepherd là khu vực mại dâm nổi tiếng dưới thế kỷ 18 – 19. Bây giờ nếu còn sống, thì họ là lớp người khá giả. Kỳ thực là tầng lớp thượng lưu !
Số 18, đường Shepherd đúng như những gì tôi nhớ được. Bậc tam cấp dẫn tới mái vòm thanh lịch với cánh cửa sơn màu đỏ sậm. Những ô cửa sổ hoa văn trắng xanh lơ với những đường nét bay bướm. Tôi không biết mình sẽ phải nói gì khi chưa có chủ đích rõ ràng. Tôi nhấn chuông.
Một thanh niên ra mở cửa, nhưng một điều chắc chắn đó không phải là “Benjamin” tối qua. Người thanh niên này cao ráo, nước da sẫm trông giống như một diễn viên sân khấu với đôi mắt đẹp, đen láy, sinh động nằm bên dưới đôi mày rậm cầu vồng, đuôi mắt dài ngay cả các nữ diễn viên điện ảnh cũng phải ganh tỵ, tóc đen bóng càng hợp với tổng thể của gương mặt. Chàng thanh niên còn có cằm chẻ nữa. Thật hoàn hảo !
“Ah !”, tôi bật lên thành tiếng, ngay lúc ấy tôi hầu như mất hồn.
Người thanh niên vẫn lịch thiệp chờ đợi.
Cuối cùng không nghĩ ra được chuyện bịa đặt gì nên tôi đành nói thật.
“Tôi là Matt Silvain, thám tử tư…”, tôi nói. Sau đó tôi thuật lại toàn bộ câu chuyện. Nghe được một lúc, người thanh niên cho rằng đứng nói chuyện nơi cửa không đúng chỗ nên mời tôi vào trong. Tôi kết thúc câu chuyện trong khi đang ngồi trong ghế bành, một tay cầm tách cà phê chính hiệu, còn tay kia cầm mẫu bánh mì ngọt – vâng, người thanh niên có bánh mì ngọt ! Không hiểu cuộc sống của họ như thế nào ?!
[Truyện Gay] Về từ cõi chết
4 (
2) votes